Tất cả chuyên mục
Long An|
30°C
/ 27°C - 33°C
Thứ Bảy, 23/11/2024 19:40 (GMT +7)
10 năm chương trình tiên tiến: Hầu hết sinh viên được làm đúng ngành nghề đào tạo
Thứ 3, 03/01/2017 | 00:00:00 [GMT +7] A A
Ngày 30/12, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ đã chủ trì hội nghị tổng kết đào tạo theo chương trình tiên tiến giai đoạn 2006-2016.
Theo báo cáo của Bộ GD – ĐT, từ năm 2006, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai thí điểm chương trình tiên tiến (CTTT) và xây dựng Đề án “Đào tạo theo chương trình tiên tiến tại một số trường đại học Việt Nam giai đoạn 2008 – 2015”, đã được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số 1505/QĐ-TTG ngày 15/10/2008.
Đến năm 2012, trong cả nước đã có 23 trường đại học triển khai thực hiện 35 chương trình đào tạo của 22 trường đại học trên thế giới, trong đó: Pha 1 gồm 10 chương trình tiên tiến thí điểm từ năm 2006; Pha 2 gồm 13 chương trình tiên tiến, tuyển sinh và đào tạo từ năm 2008; Pha 3 gồm 12 chương trình tiên tiến, tuyển sinh và đào tạo từ năm 2010.
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ.
Tại đây, bà Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, Bộ GD – ĐT cho biết: Các trường triển khai CTTT đã chuẩn bị cơ sở vật chất tương đối đầy đủ phục vụ CTTT. Tổng cộng đã có 238 lớp học, phòng học nhóm, phòng tư vấn hỗ trợ sinh viên với đầy đủ điều kiện dành cho CTTT; 56 phòng làm việc cho các ban quản lý, 62 phòng làm việc, phòng chờ dành riêng cho giảng viên CTTT; 123 phòng thí nghiệm, cơ sở thực hành được đầu tư, nâng cấp với tổng kinh phí 181,17 tỷ VNĐ; 61 phòng thư viện riêng hoặc phòng đọc riêng nằm trong thư viện của trường dành cho sinh viên CTTT.
Trong quá trình triển khai Đề án, đã có tổng cộng 1.002 lượt giảng viên và 613 cán bộ quản lý được tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ ở trường đối tác và các trường đại học có uy tín trên thế giới; 675 giảng viên và 154 cán bộ quản lý được bồi dưỡng nâng cao trình độ tiếng Anh. Đội ngũ giảng viên trong nước qua quá trình bồi dưỡng, tập huấn, làm trợ giảng với các giáo sư nước ngoài và đã dần thay thế chủ trì giảng dạy toàn bộ chương trình đào tạo. Đến nay, đã có tổng số 63 GS, 356 PGS, 727 TS và 849 thạc sĩ tham gia giảng dạy 35 CTTT.
Bà Nguyễn Thị Kim Phụng cho biết, cả Đề án đã tuyển được 13.270 sinh viên, trong đó có 69 sinh viên các dân tộc ít người. Trong quá trình đào tạo, đã có 1.518 sinh viên chuyển ra khỏi CTTT để đi du học tự túc hoặc chuyển sang các chương trình khác do không đủ trình độ ngoại ngữ, học lực yếu.
Các ngành thuộc khối kinh tế – quản lý có số lượng sinh viên cao, bình quân từ 50-100 SV/khóa. Các ngành thuộc khối Kỹ thuật có số lượng học sinh ở mức trung bình với 30-45 SV/khoá, thậm chí có ngành chỉ tuyển được dưới 20 sinh viên/năm, như: Hệ thống nhúng của Trường ĐH Bách khoa – ĐH Đà Nẵng, Vật lý của Trường ĐH Sư phạm – ĐH Huế, Khoa học vật liệu của Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, Kỹ thuật điện – Trường ĐH Kỹ thuật Công nghiệp – ĐH Thái Nguyên.
Một số CTTT không tuyển được sinh viên do việc làm trong thị trường lao động bị hạn chế hoặc do quản lý của nhà trường chưa thực sự quan tâm, như Khoa học và kỹ thuật vật liệu – Trường ĐH Báchkhoa Hà Nội không tuyển sinh 2 khoá (2012, 2014), Kỹ thuật y sinh – Trường ĐH Bách khoa Hà Nội không tuyển sinh 2 khoá (2011, 2015), Toán học – Trường ĐH Khoa học tự nhiên – ĐH QG Hà Nội không tuyển sinh 4 khoá từ năm 2012.
Đến nay, các CTTT đã có 3.601 sinh viên tốt nghiệp, trong đó 255 sinh viên xuất sắc (7,1%), 1.307 sinh viên giỏi (34,3%) và 1.707 sinh viên khá (47,4%). Được đào tạo với chương trình tiên tiến, nên sinh viên CTTT được trang bị tốt về kiến thức, kỹ năng và khả năng tiếng Anh, rất chủ động trong tự học, tự khai thác tài liệu, phối hợp làm việc theo nhóm, năng động và rất tự tin làm việc trong môi trường quốc tế.
Do vậy, hầu hết sinh viên tìm được việc làm đúng nghề hoặc học tiếp lên trình độ cao hơn sau 6 tháng tốt nghiệp. Trong số 2.561 sinh viên tốt nghiệp năm 2015 đã tìm được việc làm, có 539 sinh viên xin được học bổng đi học tiếp ở nước ngoài (449 học thạc sĩ, 90 nghiên cứu sinh); 274 sinh viên học trên đại học ở trong nước (241 học thạc sĩ, 33 nghiên cứu sinh); 123 làm giảng viên các trường đại học, cao đẳng; 104 làm việc trong các viện nghiên cứu; 269 làm việc trong các cơ cơ công lập khác; 660 làm việc trong các cơ quan liên doanh với nước ngoài; 592 làm trong các cơ quan tư nhân hoặc tự mở công ty riêng.
Hơn 40% sinh viên tốt nghiệp CTTT học tiếp lên trình độ cao hơn, làm giảng viên và nghiên cứu viên là một nguồn nhân lực tốt không những tham gia vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, mà còn là nguồn động lực để phát triển bền vững các CTTT và sẽ tham gia đóng góp vào đổi mới giáo dục đại học Việt Nam trong tương lai; sinh viên tốt nghiệp CTTT Điều dưỡng của Trường ĐH Y Hà Nội đã đạt đủ điều kiện để được chấp nhận sang làm việc tại CHLB Đức, điều này cho thấy sản phẩm của CTTT đã bước đầu tham gia vào trao đổi nguồn nhân lực quốc tế, được trông đợi sẽ ngày càng mở rộng và tham gia tích cực vào trao đổi nguồn nhân lực trong Cộng đồng kinh tế ASEAN.
Tuy nhiên, chia sẻ của lãnh đạo nhiều trường đại học cho rằng, trong 10 năm thực hiện đã gặp nhiều khó khăn và đến nay vẫn cần giải quyết. Theo PGS TS Nguyễn Hữu Tú, Phó Hiệu trưởng ĐH Y Hà Nội, trường có chương trình cử nhân điều dưỡng là đăng ký theo chương trình tiên tiến. Lúc đầu áp dụng đã có vô vàn khó khăn, kể cả chương trình lẫn lối dạy. Mới đầu đối tác của chương trình là một trường đại học ở Úc đã thất bại.
Sau đó đã chuyển sang đối tác là Mỹ. Đến nay trường đã có 3 khóa tốt nghiệp. Bằng tốt nghiệp của các em tương đương với bằng ở các nước Châu Âu. Hiện nay có 20 em đã làm việc tại các bệnh viện tại Đức và được đánh giá cao. Lương của mỗi em trung bình từ 2300- 2500 Euro/tháng.
“Tuy nhiên chương trình vẫn còn gặp những khó khăn như năng lực của người thầy vẫn chưa đáp ứng được tiêu chí của chương trình. Khả năng tổ chức vô cùng khó khăn như thiếu rất nhiều cơ sở vật chất, tiền đầu tư thì ít. Khó khăn nữa là năng lực tiếng Anh của sinh viên khiến nhiều em không theo được”, PGS TS Nguyễn Hữu Tú nhấn mạnh.
Đây cũng là khó khăn chung của nhiều trường triển khai chương trình tiên tiến. Đưa ra quan điểm về vấn đề này, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho rằng nếu đầu ra tốt như vậy thì các trường cần cân nhắc mức thu học phí, cần phải cao hơn trước. Cần rà soát lại nội lực của các chương trình về y khoa nói riêng.
Đồng thời, Bộ sẽ tiếp tục rà soát nhu cầu của nền kinh tế để chọn ngành theo hướng tăng cường các ngành công nghệ mũi nhọn, ưu tiên 8 lĩnh vực ngành nghề theo thỏa thuận trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tế ASEAN… Đối tượng tham gia bao gồm cả các trường công lập và ngoài công lập, theo phương thức hợp đồng giao nhiệm vụ, với phương châm ít sử dụng nguồn ngân sách nhà nước nhưng kết quả tốt nhất.
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cũng cho rằng, chương trình tiên tiến hoàn thành căn bản sẽ làm nền cho chương trình đào tạo chất lượng cao. Từ đó, mở rộng sang phạm vi các ngành khác nữa. Trong bối cảnh hiện nay phải chọn những ngành, chương trình tốt nhất, áp dụng một cách tự chủ. Theo đầu ra có một đội ngũ nhân lực có chất lượng cao. Và phải có cạnh tranh giữa các chương trình, các trường. Đây là nhu cầu tự thân của các trường.
Lê Vân -TTXVN
Ý kiến ()