Đến với cuộc trưng bày du khách được giới thiệu một cách khái quát về những cổ vật vô giá từ thời văn hóa Đông Sơn cách đây hơn 2.000 năm, các thời đại của văn minh Đại Việt và các triều đại phong kiến cho đến khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Cùng với những câu chuyện lịch sử, văn hóa hấp dẫn được giới thiệu dưới dạng bảng thông tin, những đoạn phim ngắn trình chiếu ngày tại không gian trưng bầy đã giúp người xem thêm hiểu về những báu vật vô giá này.
Theo thông tin từ Ban tổ chức, cuộc trưng bày đặc biệt này sẽ kéo dài đến hết tháng 5-2017./.
Trống đồng Hoàng Hạ, một trong những chiếc trống đẹp nhất của nền văn hóa Đông Sơn. Năm 1937, trống được phát hiện khi đào mương tại thôn Hoàng Hạ, huyện Phú Xuyên (Hà Nội). Mặt trống trang trí hình mặt trời 16 tia, giữa các tia trang trí hoa văn lông đuôi chim công, cảnh sinh hoạt, chèo thuyền, xử tử tù binh… Cùng với nhóm trống Ngọc Lũ, Sông Đà, Cổ Loa, trống đồng Hoàng Hạ phản ánh đời sống vật chất, tinh thần phong phú của cư dân Đông Sơn, thể hiện đỉnh cao nghệ thuật đúc đồng thời dựng nước đầu tiên của dân tộc. Ảnh: Công Đạt
Thạp Đào Thịnh (đồng) có từ thời Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2000 – 2500 năm được Nhà nước công nhận Bảo vật quốc gia vào năm 2012. Trong văn hóa Đông Sơn, thạp đồng là di vật tiêu biểu sau trống đồng và chủ yếu chỉ xuất hiện trong phạm vi phân bố của nền văn hóa này. Trong hàng trăm chiếc thạp đã phát hiện thì thạp Đào Thịnh là chiếc thạp có kích thước lớn nhất, hoa văn trang trí phong phú, chặt chẽ, tinh mỹ và độc đáo nhất. Ảnh: Công Đạt
Chiếc ấn vàng Sắc mệnh chi bảo nặng 8,3 kg, đúc vào năm 1827 dưới thời vua Minh Mệnh. Ấn có núm hình rồng cuốn, mặt ấn đúc nổi 4 chữ triện Sắc mệnh chi bảo. Ấn dùng để ban cấp cáo sắc cho văn võ cùng phong tặng thần và người. Đây là hiện vật độc bản, biểu trưng cho quyền lực nhà Nguyễn, có giá trị đặc biệt trong sưu tập kim bảo triều Nguyễn. Ảnh: Công Đạt
Cây đèn hình người quỳ bằng đồng, thuộc nền văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2000-2500 năm. Cây đèn thể hiện hình tượng người đàn ông mình trần đóng khố tư thế đang quỳ, hai tay nâng đĩa đèn. Tượng có khuôn mặt bầu, mắt mở to, miệng hơi mỉm cười, quanh môi có ria mép. Đầu tượng được gắn vương miện, tóc để chỏm. Hai vai và sau tượng gắn 3 cành chữ S, mỗi cành chữ S đỡ một đĩa đèn và gắn một hình người đang quỳ. Trên hai đùi và đằng sau người đàn ông có 4 nhạc công cũng ở tư thế quỳ, hai nhạc công đang thổi sáo. Cánh tay, cổ tay có đeo trang sức, tai đeo hoa hình khuyên to tròn. Cây đèn là hiện vật độc bản, đại diện cho nghệ thuật cổ tiêu biểu vào thời kỳ cuối văn hóa Đông Sơn, có sự giao lưu với văn hóa Hán. Ảnh: Công Đạt
Mộ thuyền Việt Khê có kích thước lớn nhất, hiện trạng nguyên vẹn nhất chứa đựng nhiều đồ tùy táng quý hiếm của văn hóa Đông Sơn, niên đại 2.000-2.500 năm. Đây là loại quan tài bằng thân cây khoét rỗng, còn gọi là mộ thuyền đã phát hiện ở Việt Nam. Mộ chứa 109 đồ tùy táng gồm chủ yếu là các loại vũ khí, nhạc khí, công cụ lao động và đồ dùng sinh hoạt bằng đồng. Mộ thuyền được công nhận là bảo vật quốc gia năm 2013. Ảnh: Tư lieu
Bia Võ Cạnh – tấm bia cổ nhất Đông Nam Á là khối đá có hình trụ đứng, trên 3 mặt khắc chữ Sanskrit. Đây là tấm bia cổ nhất còn lại của vương quốc cổ Champa. Bia khắc chữ Phạn cổ cho biết nhiều thông tin giá trị về lịch sử vương triều tiền vương quốc Nam Chăm. Ảnh: Việt Cường
Chuông chùa Vân Bản là chiếc chuông cổ nhất, lớn nhất, uy nghi nhất của nền văn minh Đại Việt, có niên đại thế kỷ 13-14 dưới thời Trần. Trên thân chuông khắc chữ Hán nói về những người có công khai phá sơn lâm, mở mang đất đai lập dựng chùa Vân Bản. Chuông là nguồn tài liệu quý để nghiên cứu lịch sử, văn hóa Phật giáo Việt Nam nói chung, thời Trần nói riêng. Ảnh: Công Đạt
Môn hạ sảnh ấn – chiếc ấn đồng có nội dung rõ ràng nhất, niên đại cụ thể nhất liên quan đến lịch sử hành chính trung ương triều Trần. Ấn được đúc dưới thời Trần, niên hiệu Long Khánh thứ 5 (1377), được phát hiện năm 1962 tại xã Hương Giang (Hương Khê, Hà Tĩnh). Sảnh Môn hạ là một trong những cơ quan hành chính trung ương cao nhất thời Trần, do vua Trần Minh Tông đặt ra. Cơ quan này thân cận nhà vua, có nhiệm vụ giữ bảo ấn, truyền lệnh của vua tới các quan, nhận lời tấu lên vua và các công việc lễ nghi trong cung. Chức quan ở sảnh này đều do các quan đại thần đảm nhiệm. “Môn hạ sảnh ấn” được dùng để đóng trên những văn bản hành chính quan trọng của triều đình, từ đời vua Trần Phế Đế (trị vì 1377-1388) về sau. . Ảnh: Công Đạt
Ấn vàng Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo do chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) cho đúc làm quốc bảo năm 1709. Thời vua Gia Long lên ngôi, bảo ấn được chọn làm báu vật truyền ngôi của vương triều Nguyễn. Ảnh: Công Đạt
Bình vẽ thiên nga có từ thời Lê sơ (thế kỷ XV) có kích thước lớn nhất, nguyên vẹn nhất trong sưu tập hiện vật độc bản khai quật từ tàu đắm Cù Lao Chàm, Tp. Hội An (Quảng Nam). Bình dáng cao, vai phình, thân thuôn nhỏ. Hoa văn trang trí chia thành 7 băng phủ kín thân từ miệng xuống đáy. Băng hoa văn chủ đạo chiếm không gian lớn nhất ở giữa thân bình vẽ phong cảnh với 4 con thiên nga theo tích Phi, Minh, Túc, Thực: một con đang dang cánh bay, một con đang nghển cổ kêu, một con đang rúc đầu vào cánh ngủ và con còn lại đang kiếm ăn. Đây là cách chơi chữ và mượn hình biểu ý của người xưa nhằm gửi gắm ước nguyện được thăng tiến, tiền đồ xán lạn, giàu có, no đủ. Thời Lê sơ là giai đoạn phát triển huy hoàng của nghệ thuật gốm sứ cổ Việt Nam. Ảnh: Công Đạt
Trống đồng Cảnh Thịnh được đúc năm 1800 dưới thời Tây Sơn. Đây là hiện vật độc bản trong phức hợp trống đồng Việt Nam. Hoa văn trang trí chính đúc nổi đề tài tứ linh mang ý nghĩa biểu trưng đất nước thái bình thịnh trị, xã hội an lạc. Giá trị đặc biệt khác của trống Cảnh Thịnh chính là phần tư liệu. Bài minh văn dài 222 chữ dẫn thuyết lý do, mục đích đúc trống, nói về người trong xã là bà Nguyễn Thị Lộc, vợ của Tổng Thái giám Giao quận công vào năm Vĩnh Hựu thứ 2 đời vua Lê Ý Tông (1736) đã tập phúc góp công dựng chùa Linh Ứng. Ảnh: Công Đạt
Cận cảnh những hoa văn cổ được khắc trên thân trống đồng Cảnh Thịnh. Ảnh: Công Đạt
Cùng với bản gốc, tập thơ “Nhật ký trong tù” còn được trưng bày dưới hình thức ảnh chụp toàn bộ các trang và bản dịch tương ứng. Ảnh: Công Đạt
Đường Kách mệnh tập hợp những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian hoạt động cách mạng ở Quảng Châu (Trung Quốc) những năm 1925-1927, do Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông ấn hành bí mật và chuyển về nước. Đây được coi là văn kiện lý luận chính trị đầu tiên của Đảng, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối của cách mạng Việt Nam. Ảnh: Công Đạt
Ý kiến ()