Tất cả chuyên mục

Trải qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt là từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, nền giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) không ngừng lớn mạnh về quy mô trường, lớp và nâng cao chất lượng dạy, học. Từ phong trào “diệt giặc dốt”, xóa nạn mù chữ với những lớp bình dân học vụ, bổ túc văn hóa,... đến đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT như hiện nay là hành trình vừa kế thừa, phát huy truyền thống, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển của thời đại.
Từ “Chiến dịch chống nạn mù chữ”…
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa coi việc xóa mù chữ là nhiệm vụ cấp bách. Trong phiên họp đầu tiên ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ: “Nạn dốt là một trong những phương pháp thâm độc mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn 90% đồng bào ta còn mù chữ. Thế mà chỉ cần 3 tháng là có thể đọc được, viết được bằng tiếng nước ta. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở chiến dịch chống nạn mù chữ”.
Theo tài liệu, tư liệu lưu trữ, tại tỉnh Tân An, chiến dịch “diệt giặc dốt” được phát động tháng 11/1945, thu hút hàng ngàn người tham gia học “chữ Cụ Hồ”. Khẩu hiệu “Đi học là yêu nước, đi dạy là yêu nước” vang lên khắp nơi.
Năm 1975, thống nhất đất nước, GD tỉnh Long An bước sang thời kỳ xây dựng nền GD xã hội chủ nghĩa tại địa phương, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khi đó, Long An tiếp quản khoảng 307 trường trung học và tiểu học (TH) với hơn 3.800 giáo viên (GV), đồng thời khẩn trương chuẩn bị mọi công tác để tổ chức khai giảng năm học mới 1975-1976.
Ngoài mau chóng đưa GD trở lại bình thường, kết hợp cải tạo nền GD cũ và xây dựng nền GD mới; lấy công tác GD chính trị và xây dựng tổ chức làm nhiệm vụ trung tâm, tỉnh Long An còn đẩy mạnh xóa mù chữ cho người dân lao động, bổ túc văn hóa cho cán bộ và thanh niên, coi đó là nhiệm vụ cấp thiết hàng đầu, đồng thời phát triển giáo dục phổ thông (GDPT) và mẫu giáo, tạo điều kiện thuận lợi cho con em người dân được đi học.
Từ tháng 7/1975, phong trào xóa mù chữ và bổ túc văn hóa được triển khai đồng loạt ở tất cả các huyện, thị xã trên địa bàn tỉnh. Tiểu ban GD tỉnh phối hợp chính quyền các cấp bố trí cán bộ chuyên trách thực hiện công tác xóa mù chữ và bổ túc văn hóa từ tỉnh đến huyện, xã, ấp. Các trường học được giao nhiệm vụ vừa dạy phổ thông, vừa tham gia xóa mù chữ với phương châm “Một hội đồng, hai nhiệm vụ”.
Từ thành thị đến nông thôn, phong trào bình dân học vụ diễn ra sôi nổi. Chỉ sau 2 tháng phát động chiến dịch (từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 8/1975), Long An trở thành “lá cờ đầu” ở các tỉnh phía Nam, có thành tích nổi bật trong xóa mù chữ. Khí thế “diệt giặc dốt” trong những ngày đầu giải phóng đặt nền móng cho thành tựu xóa mù chữ và phổ cập GD ở Long An những năm kế tiếp.
Tại tỉnh Tây Ninh (cũ), theo thống kê (số liệu có thể có chênh lệch do nhiều nguyên nhân khác nhau) năm đầu giải phóng, Tây Ninh có 2.657 lớp học phổ thông và mẫu giáo, tổng cộng hơn 95.000 học sinh (HS). Đội ngũ GV có 2.631 người, trong đó có khoảng 500 GV được đào tạo cấp tốc và GV chi viện từ miền Bắc sau ngày 30/4/1975.
Điều đáng nói, hệ thống trường, lớp phần nhiều do chế độ cũ để lại ở vùng tạm chiếm, cơ sở vật chất đã xuống cấp. Khi ngành GD phát triển đến các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng giải phóng cũ, trường, lớp chỉ được xây dựng tạm bợ với mái tranh, vách đất. Trước ngày khai giảng năm học, thầy, cô giáo phải “tựu trường” trước, vừa học tập bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ, vừa “ra tay” cắt tranh lợp lại mái, moi đất sét đắp lại vách lớp học.
35 năm công tác trong ngành GD, thầy Cao Quang Hải - GV Trường THCS Nguyễn Văn Ẩn, trải qua nhiều khó khăn buổi đầu và vui mừng trước sự phát triển như ngày nay của ngành GD.
Thầy Hải kể: “Năm 1990, xã Long Thuận có ngôi trường mang tên Trường TH&THCS Long Thuận. Năm 1993, hai cấp học tách riêng và cấp THCS mang tên mới như hiện nay: Trường THCS Nguyễn Văn Ẩn. Lúc tôi về công tác, trường vô cùng khó khăn. Nhà ở Trảng Bàng, tôi lên đây đi dạy, ở khu tập thể có 7 phòng bằng nhà tranh, vách đất. Mỗi phòng rất hẹp, 2-3 người ở chung. Lúc đó, trường chỉ có 2 dãy phòng, tôn bị nứt, cửa sổ, bàn ghế cũ nát. Mỗi bàn HS bố trí 4 em ngồi chung, đã vậy còn gãy tới gãy lui, phải kẹp tầm vông. Chúng tôi phải sang dạy học nhờ cơ sở Trường THCS Long Giang đúng một năm. Những năm 1990, thiết bị thiếu thốn, muốn có đồ dùng dạy học, GV phải tự làm. Sau này, được các cấp quan tâm, lớp có nhiều dụng cụ học; trường cũng sạch đẹp, đầy đủ trang thiết bị dạy, học”.
…Đến diện mạo mới
Kế thừa và tiếp nối thành tựu trong thời kháng chiến và nhiều năm sau giải phóng, ngành GD&ĐT không ngừng phát triển. Hệ thống trường, lớp ngày càng được đầu tư, đáp ứng nhu cầu học tập của HS. Năm học 2023-2024, tỉnh Tây Ninh (cũ) có 133 trường mầm non, 96 điểm trường mẫu giáo, có 31.874 trẻ mầm non học bán trú, đạt 87,1%, bảo đảm chương trình GD cũng như chăm sóc toàn diện cho trẻ.
Bên cạnh đó, Tây Ninh có 307 cơ sở GDPT. Trong đó, có 178 trường TH (giảm 5 trường so với năm học 2022-2023), 101 trường THCS và 28 trường THPT. Tổng số HS phổ thông trong năm học này là 194.289 em. Trong đó, cấp TH có 95.780 HS, cấp THCS có 68.864 HS, cấp THPT có 29.645 HS. Tỷ lệ bình quân 3,11 cơ sở GD THPT/đơn vị hành chính cấp huyện; 1,07 cơ sở GD THCS và 1,89 cơ sở GD TH/đơn vị hành chính cấp xã.
Từ ngày 01/7/2025, sau sáp nhập, tỉnh Tây Ninh (mới) có 1.022 cơ sở GD từ mầm non đến phổ thông (965 trường công lập, 60 trường ngoài công lập). Toàn tỉnh có 685 trường đạt chuẩn quốc gia, đạt 67,03%. Những con số cho thấy sự lớn mạnh về quy mô trường, lớp, sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập.
Bên cạnh đó, chất lượng GD không ngừng được quan tâm, nâng chất. Trong đó, Chương trình GDPT 2018 như thổi “luồng sinh khí” cho ngành trên chặng đường đổi mới căn bản, toàn diện. Thay đổi rõ nét nhất là tại các trường thuộc vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh.
Hiệu trưởng Trường TH Khánh Hưng Huỳnh Minh Nghĩa cho biết, trường chú trọng phát huy năng lực, phẩm chất HS thông qua các hoạt động dạy học tích cực, lấy HS làm trung tâm, kết hợp linh hoạt giữa lý thuyết và thực hành. Việc đổi mới phương pháp giảng dạy không chỉ nâng cao hiệu quả học tập mà còn tạo môi trường học đường năng động, sáng tạo, giữ vững và không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục đại trà, đồng thời tập trung nâng cao chất lượng các phong trào mũi nhọn có trọng tâm, trọng điểm.
Căn cứ các hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học đã được Bộ GD&ĐT ban hành, Sở GD&ĐT chỉ đạo các cơ sở GD xây dựng kế hoạch GD phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, vừa bảo đảm tính khoa học, sư phạm, vừa bảo đảm yêu cầu chuẩn đầu ra của Chương trình GDPT 2018. Kế hoạch GD của nhà trường bảo đảm thống nhất giữa kế hoạch thực hiện Chương trình GDPT 2018 và Chương trình GDPT 2006.
Sở còn chú trọng xây dựng và thực hiện các chủ đề/bài học STEM đối với một số môn học nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động của HS trong quá trình tổ chức dạy học, nâng cao khả năng vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tế, qua đó phát triển phẩm chất, năng lực của HS; bước đầu triển khai GD kỹ năng công dân số;...
Những bước tiến không ngừng của ngành GD&ĐT là “quả ngọt” từ sự nỗ lực không ngừng. Và những kết quả ấy sẽ là nền tảng vững chắc để GD&ĐT tiếp tục vươn xa, đáp ứng yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.
Ý kiến ()